3/5 (3) Bình chọn
...
Truyện thứ tư
Hoàng tử và Công chúa
Giécđa đành phải ngồi nghỉ. Gần nơi em ngồi có một con quạ lớn. Quạ đậu ở đấy từ lâu, nhìn em, lắc đầu rồi cất tiếng kêu: “Quạ! Quạ! Quạ! Quạ!” Quạ không thể nói rõ hơn được nữa, nhưng có vẻ lưu ý đến cô bé và hỏi em đi đâu một mình như vậy. Giécđa nghe rất rõ hai tiếng “một mình”, em thuật lại cuộc đời và mối lo lắng của em cho quạ nghe và hỏi quạ có trông thấy Kay ở đâu không. Quạ lắc đầu, suy nghĩ một lát rồi đáp:
- Có thể, có thể!
- Thật ư? Em reo lên và ôm ghì lấy quạ mà hôn, suýt nữa làm quạ chết ngạt.
- Làm gì mà rối lên thế? - Quạ bảo - Tôi nghĩ rằng cậu bé mà tôi thấy có lẽ đúng là Kay. Nhưng giờ thì chắc là Kay thích công chúa hơn và đã quên cô rồi.
- Kay ở nhà một nàng công chúa ư?- Giécđa hỏi.
- Phải, cô hãy nghe đây, quạ đáp, nhưng nói cái tiếng của cô khó quá đi mất. Giá cô biết tiếng của chim thì hay biết mấy.
- Không, tôi chưa học tiếng chim bao giờ. Bà tôi cũng biết lắm cơ! Tiếc quá! Nếu tôi chịu khó học bà tôi thì hay biết mấy!
- Không sao! Quạ nói. Tôi sẽ cố gắng nói thế nào cho cô có thể hiểu được.
Và quạ kể lại tất cả những điều mà quạ biết:
- Trong giang sơn của chúng ta đang đứng đây có một nàng công chúa rất mực thông thái, thông thái đến nỗi đã đọc qua hết các báo xuất bản trên thế giới, nhưng được cái đọc xong thì lại quên tất! Giờ nàng đã lên ngôi báu và thiên hạ đồn rằng nàng thường hay hát bài: “Ta muốn lấy chồng”, với một giọng nghe ra như oán như sầu. Thật là bài hát đầy ý nghĩa! Nàng muốn lấy chồng, nhưng lại muốn kén một người nói năng hoạt bát, chứ không phải một người chỉ có cái bề ngoài chững chạc. Cái vỏ ngoài nàng cho là không quan trọng gì mà còn làm cho nàng khó chịu là đằng khác. Bỗng nhiên, có một ngày, nàng bắt các mệnh phụ trong triều học đánh trống và họ cũng lấy làm khoái được học cái môn ấy. Họ đồng thanh nói:
- Hay cha chả là hay! Chính chúng tôi cũng đã nghĩ đến chuyện ấy!
Quạ kể tiếp:
- Cô có thể tin những lời tôi kể. Chả là tôi có một cô bạn gái đã được người ta mang về nuôi, được bay nhảy tự do trong cung và đã kể lại tất cả cho tôi nghe.
Dĩ nhiên cô bạn gái ấy là một ả quạ cái, vì quạ đực thì chỉ có đánh bạn với quạ cái chứ sao!
Một ngày kia, trên các tờ báo xuất hiện, chân dung của công chúa có đóng khung hình quả tim và có in tên công chúa, có gạch dưới hẳn hoi. Báo lại có đăng rõ ràng rằng tất cả các chàng trai mặt mũi sáng sủa đều có thể vào lâu đài nói chuyện với công chúa. Chàng nào mà nói năng tự nhiên như ở nhà mình và hoạt bát nhất sẽ được lấy công chúa.
Ái chà chà! Thật là náo nhiệt! Các chàng trai lao vào, chen chúc nhau, nhưng suốt hai ngày chẳng một ai thành công cả. Ở ngoài phố thì anh nào cũng nói năng liến thoắng, nhưng một khi đã qua cửa lâu đài, trông thấy lính gác bận áo dát bạc, thấy quân hầu đeo tua rua vàng đứng trên cầu thang, khi bước vào các văn phòng sáng trưng, các anh chàng đâm hoảng và khi đến trước ngai vàng, nơi công chúa ngồi, thì chẳng nói gì hơn là lắp lại tiếng cuối cùng trong lời phán bảo của công chúa. Cách đối đáp ấy làm cho nàng chẳng thích thú chút nào. Có thể nói là các chàng đến cầu hôn ấy đều đã hít quá nhiều thuốc lào, nên ngây ngất như người say thuốc. Chỉ đến khi ra tới ngoài phố họ mới trở lại ba hoa như trước. Họ đông đến nỗi phải xếp thành một hàng dài từ cửa ô đến tận lâu đài.
Tôi bận ở đấy để xem họ. Họ chờ lâu đến nỗi phải chịu nhịn đói, nhịn khát, thế mà ở lâu đài người ta chẳng chịu cho họ lấy một cốc nước lã. Có anh mang theo bơ và bánh mì, nhưng chẳng chia sẻ cho ai cả. Những anh ấy nghĩ rằng: “Cứ để cho họ đói lả đi. Trông họ sẽ thảm hại và công chúa sẽ gạt họ ra”.
- Nhưng còn Kay?- Giécđa hỏi- Kay có mặt ở đó không?
- Khoan tí đã! Giờ đến lượt Kay rồi đấy. Sáng ngày thứ ba, bỗng người ta thấy một câu bé chẳng có ngựa xe gì cả, vui vẻ đi bộ tới lâu đài. Mắt cậu ta lóng lánh như mắt cô vậy. Tóc cậu dài và rất đẹp, nhưng quần áo thì xấu xí.
- Kay đấy! Giécđa vui vẻ vỗ tay reo lên. Đúng là Kay rồi!
- Trên lưng cậu ta đeo một túi vải to.
- Không phải túi vải đâu, đấy là cái xe trượt câu ấy mang theo đi ra đi.
- Cũng có thể - Quạ đáp - Vì tôi không nhìn cậu ta kỹ lắm, nhưng cô bạn kể rằng khi vào lâu đài trông thấy lính gác mặc áo dát bạc và lên thang gác gặp quân lính hầu đeo tua rua vàng cậu ta không hề ngạc nhiên. Cậu ta chào họ và bảo: “Đứng ở cầu thang như các anh thì chán chết. Tôi thì tôi thích vào trong nhà hơn.” Các phòng đều sáng choang, một đoàn các quan lớn, quan bé đi chân không, tay bưng những cái khay bằng vàng. Giày của Kay khua lộp bộp, nhưng cậu chẳng rối trí chút nào.
- Đúng là Kay rồi, Giécđa nói, tôi biết cậu ta có đôi giày mới. Đã có lần cậu ta khua lộp bộp đôi giày ấy trong nhà bà nội.
- Đúng, đúng, đôi giày khua lên lộp cộp!- Quạ nói- Anh chàng đi thẳng đến chỗ công chúa. Nàng ngự trên một viên ngọc to bằng chiếc guồng quay sợi. Các mệnh phụ trong triều cùng đám thị tỳ lớn bé, các quan lớn cùng đám thị vệ và lính hầu đủ các cỡ. Có cái lạ là càng đứng gần cửa ra vào, xa công chúa họ lại càng vênh váo. Một tên thị vệ hạng bét, đi giày băng túp, vác mặt lên với một vẻ kiêu căng, rất khó coi.
- Trông đáng ghét quá nhỉ? - Giécđa nói- Nhưng còn Kay thì sao? Bạn tôi có làm vừa lòng công chúa không?
- Nếu tôi mà cũng là quạ thì dù đã đính hôn với kẻ khác, tôi cũng chiếm được công chúa, chắc chắn là Kay cũng nói năng hoạt bát chẳng kém gì tôi, tuy rằng tôi nói tiếng nhà quạ. Cậu ta rất bình tĩnh và rất đáng yêu. Cậu ta không đến để cầu hôn mà chỉ đến để xem công chúa thông thái đến mức nào. Cậu ta nhận thấy công chúa thông thái thật và công chúa cũng nhận ra cậu ta thông minh có thừa.
- Đúng là Kay quá đi rồi! Cậu ta học giỏi đến nỗi đã làm tính nhẩm và làm những bài toán đố có ba phép tính. Quạ hãy vui lòng dẫn tôi đến lâu đài.
- Chẳng dễ đâu - Quạ đáp - Làm thế nào mà vào đấy được kia chứ? Tôi sẽ nói chuyện với cô bạn tôi xem. Chắc chắn là cô ta sẽ hiến cho chúng ta một mưu kế gì đấy. Tôi cũng phải nói để cô biết rằng: một em bé như cô chẳng khi nào được phép vào lâu đài đâu.
- Thật thế ư? Kay mà biết tôi ở đây thì chắc là cậu ta sẽ ra đón tôi ngay.
- Đợi tôi ở cái cột cây số này nhé!- Quạ nói, lắc đầu, rồi bay đi.
Mãi đến chiều tối quạ mới trở về và nói:
- Quạ! Quạ! Tôi mang đến cho cô lời chào của cô bạn tôi và đây là một chiếc bánh nhỏ bạn tôi đã lấy trong bếp để biếu cô. Chắc cô đói lắm rồi! Cô không có giày dép gì cả nên không thể đến lâu đài được đâu. Lính gác và quân hầu sẽ không cho cô vào đâu. Nhưng chớ có khóc! Rồi cô cũng sẽ vào được thôi. Cô bạn tốt của tôi có biết một gác con, bí mật, dẫn vào phòng ngủ và cô ta lại có thể mượn được chìa khoá buồng nữa.
Họ đi vào vườn, theo con đường lớn, lá rụng lả tả, và khi trong lâu đài đèn tắt hết, quạ dẫn Giécđa đến một chiếc cửa sau bỏ ngỏ. Giécđa lo sợ và nóng ruột, tim đập thình thịch, Em cảm thấy như sắp làm điều gì xấu, nhưng thực ra em chỉ muốn tìm gặp Kay. Phải, đúng là cậu ta rồi! Em nhớ lại đôi mắt thông minh và bộ tóc dài của Kay! Em cảm thấy Kay mỉm cười như là hai đứa đang ngồi chơi với nhau ở nhà, bên gốc cây hoa hồng. Chắc Kay sẽ sung sướng được gặp lại em, được biết rằng em đã phải đi không biết bao nhiêu là đường đất để tìm gặp Kay, được biết rằng ở nhà mọi người buồn bã như thế nào khi không thấy Kay về. Lòng em tràn đầy nỗi lo sợ lẫn vui sướng.
Họ đã tới thang gác. Nơi đó có một ngọn đèn đặt trên một cái tủ đựng bát đĩa. Cô ả quạ đậu dưới đất. Quạ quay đầu lại nhìn quanh quất trong lúc Giécđa lễ phép cúi đầu chào theo kiểu cách mà bà em đã dạy em.
- Anh chồng chưa cưới của tôi đã nói tốt về cô với tôi rất nhiều - Quạ cái nói - Cuộc đời của cô thật là cảm động. Cô hãy cầm lấy đèn, tôi sẽ đi trước. Chúng ta theo con đường thẳng này mà đi và như thế chúng ta sẽ chẳng gặp ai cả.
- Hình như có ai đến đằng sau kia- Giécđa nói.
Và quả thật có tiếng rít gần bên em. Giécđa thoáng thấy một đoàn ông lớn, bà lớn cưỡi những con ngựa chân thon, bờm phất phơ, đi săn thú.
- Đó chỉ là các thần mộng thôi- Quạ nói.
...
Copyright 2008 - 2016 Liên hệ