0/5 (0) Bình chọn
IX. Nữ thần Băng Giá
Mùa xuân đã làm cho những cành hồ đào và hạt dẻ dẻ đẹp đẽ, dải từ cầu Xanh Môrit suốt dọc sông Rôn đến tận bờ hồ Lêman*, đâm chồi nảy lộc, trở lại rậm rạp tốt tươi. Quãng sông này tựa như một thác nước dữ tợn, sôi sục chẳng kém gì lúc mới thoát ra khỏi vùng băng tuyết mênh mông nơi ưa thích của Nữ thần Băng giá.
Mụ ta cưỡi gió lên một trong những đỉnh cao nhất dãy Anpơ, ngồi trên một nệm tuyết ngoài nắng và đưa cặp mắt hau háu nhìn xuống các thung lũng. Ở đấy mụ thấy loài người đang lao động bận rộn dưới chân một ngọn núi cao, trông như một tổ kiến. Mụ nói với một giọng khinh bỉ: “Thế mà bọn con gái Mặt Trời gọi các người là những kẻ Trí tuệ! Các người chẳng qua chỉ là sâu bọ. Chỉ một cơn núi lở cũng đủ đè nát các người lẫn nhà cửa làng mạc của các người.”
Mụ ngửng đầu kiêu hãnh. Mắt mụ phóng ra những tia đầy sát khí bao quát cả chân trời rộng lớn. Trong thung lũng người ta nghe tiếng đá bị thuốc nổ phá tung lên. Lại có những máy móc lăn đi nặng nề. Người ta đang đặt đường sắt vào một cái hầm ngầm qua dãy Anpơ.
Nữ thần nói một cách kiêu ngạo: “Trông kìa! Chúng như những con chuột chũi đào hang dưới đất. Mìn nổ chỉ to hớn tiếng súng một tí mà cũng làm cho chúng giật mình kinh sợ. Ta đây, mỗi lần di chuyển cung điện, tiếng động còn to ngang tiếng sấm.”
Từ dưới thung lũng bay lên một làn khói cứ tiến dần, tiến dần: đó là khói toả lên từ một đầu máy tàu hoả, trông tựa một cái lông ta cắm trên đầu một con rắn dài. Đoàn tàu hoả vút đi nhanh hơn mũi tên bắn. Nữ thần lại nói: “Chúng tưởng chúng là chủ trên địa cầu. Chúng kiêu hãnh với cái óc thông minh của chúng. Nhưng quyền lực vẫn thuộc về sức mạnh của thiên nhiên.” Mụ vừa cười vừa nói, tiếng vọng vang đi xa làm rung chuyển không gian. Những người dưới thung lũng bảo nhau: “Đó là tiếng núi lở.”
Các công chúa Thái Dương cất tiếng hát bài ca ca ngợi trí tuệ loài người: chính cái trí tuệ đó chinh phục biển cả, chuyển núi, lấp vực và làm chủ sức mạnh của thiên nhiên. Trong khi các nàng hát, đằng xa một đoàn xe lửa đang băng qua không gian.
Nữ thần núi Anpơ nhìn đoàn tàu, nói với giọng chế giễu: “Đấy là những Trí Tuệ! Chúng phải tuỳ thuộc vào sức của hơi nước đang kéo chúng đi. Ở đầu tàu, anh lái đứng kiêu hãnh như một ông vua. Những con người khác chen chúc trong các toa xe. Một nửa trong số đó ngủ bình thản vì họ tin chắc rằng con rồng hơi ấy không dẫn chúng đến chỗ chết được.” Mụ lại cười. Người đứng dưới thung lũng bảo nhau: “Lại một trận núi lở nữa.”
Ruyđy và Babét cũng ở trong số hành khách trên tàu. Họ bảo nhau: “Mụ Nữ thần Băng giá độc ác đã kiếm đủ cách, nhưng không thể nào bắt một đứa trong chúng ta đi được.” Nữ thần Băng giá reo lên: “Chúng nó kia rồi! Ta đã từng đè nát hàng đàn nai, hàng ngàn cây tùng và nhiều tảng đá cao như gác chuông nhà thờ, làm gì mà ta chẳng thắng được những đứa tự xưng là Trí tuệ ấy. Đặc biệt cái đôi ấy thách thức ta. Ta sẽ tiêu diệt.”
Mụ lại cười một lần thứ ba nữa. Những người dưới thung lũng, nhòm lên những ngọn núi đang sập xuống và nhắc lại: “Núi lại vẫn lở! Trên ấy xảy ra việc gì thế không biết?”
X. Bà mẹ đỡ đầu
Môngterơ, gần thôn Claren, trên bờ hồ Lêman thơ mộng, là nơi có bà mẹ đỡ đầu của Babét ở, một bà quý phái người Anh sống với các cô con gái và một anh cháu họ trẻ tuổi. Bà vừa mới ở Anh sang thì ông chủ cối xay đã đến thăm và báo tin cưới Babét. Ông ta kể chuyện Ruyđy, hội thi bắn và chuyện con chim ưng non. Tóm lại, ông dã tường thuật tất cả câu chuyện đính hôn ấy, làm cho người nghe rất thích thú. Mọi người đều thấy mến Babét, Ruyđy và mến ngay cả ông chủ cối xay nữa. Họ mời cả ba người đến Môngtơrơ chơi một ngày.
Bờ hồ này là nơi các thi sĩ vẫn ca ngợi. Nơi đó, bên bờ nước trong xanh, Bairơn* đã đến ngồi dưới những gốc cây hồ đào, viết những lời thơ tuyệt diệu ca ngợi người tù năm xưa bị giam hãm trong lâu đài Si-ông**. Xa chút nữa, dưới những bóng cây cao thôn Claren, Giăng Giắc Rutxô đã từng dạo chơi và mơ màng đến nàng Hêlôidơ.
Phía sau một chút, gần chỗ sông Rôn đổ vào hồ, có một hòn đảo nhỏ đến nỗi từ bờ nhìn ra người ta tưởng lầm một chiếc thuyền. Cách đây một trăm năm đấy chỉ là một mỏm đá. Hồi ấy có quý bà xinh đẹp cho chở đất ra và trồng ba cây dạ hợp, đến nay cành lá bao trùm cả hòn đảo.
Babét say mê nơi ấy. Theo ý nàng, đó là nơi đẹp nhất trong khung cảnh mỹ lệ này. Nàng ao ước: “Ở cái thiên đàng xinh xinh ấy chắc là thích lắm!” Nàng muốn tạt vào, nhưng tàu thuỷ lại chạy thẳng và đỗ ở bến Vecnêch.
Họ đi giữa những bức tường trắng xoá đầy ánh nắng bao bọc các vườn nho ở Môngtơrơ. Đằng trước những mái nhà tranh của nông dân có nhiều đám cây vả, cây nguyệt quế và trắc bá. Nhà bà mẹ đỡ đầu của Babét ở lưng chừng cái dốc gần đấy.
Họ được đón tiếp rất nồng nhiệt. Bà mẹ đỡ đầu của Babét vui vẻ và dịu dàng. Hồi còn nhỏ, chắc bà giống như tiên đồng của hoạ sĩ Raphaen. Bây giờ, với bộ tóc bạc phơ trông bà giống như Đức thánh mẫu. Các cô con gái của bà là những tiểu thư dong dỏng ca, thanh nhã, mặc theo kiểu mới nhất. Người anh họ của các cô mặc đồ trắng từ đầu đến chân, anh ta có bộ tóc vàng hoe ngả sang màu hung và một bộ ria dài đồng màu với tóc. Ngay từ lúc đầu, anh ta đã tỏ ra chú ý nhiều đến cô Babét. Trong phòng khách, trên một chiếc bàn lớn có nhiều tranh và nhiều tập ảnh đóng rất đẹp, nhưng chẳng ai nghĩ đến việc xem cả. Cửa sổ trên bao lơn mở rộng và từ đó người ta nhìn thấy rõ toàn cảnh cái hồ mỹ lệ. Làn nước hồ phẳng lặng đến nỗi những làng mạc và rừng núi phủ tuyết vùng Xavoa soi bóng xuống nước như một tấm gương.
Ruyđy lúc nào cũng táo bạo vui vẻ là thế mà lần đầu tiên trong đời cảm thấy nơi này không hợp với mình. Đi trên sàn đánh xi với anh dài thế! Những cử chỉ của người Anh quá kiểu cách và mực thước làm anh khó chịu. Anh thở dài khoan khoái khi được ra ngoài dạo chơi. Nhưng lại có cái khó chịu là họ đi rất chậm, đến nỗi anh có thể tiến ba bước rồi lùi lại hai bước mà vẫn theo kịp họ.
Họ đi thăm lâuu đài Si-ông âm u, cổ kính, bốn bề là hồ. Họ nhìn thấy nhà tù, khí cụ tra tấn, cái thớt gỗ để xử trảm và cái cửa sập. Người ta kể lại rằng những phạm nhân bị ném qua đó vào những ngọn giáo sắt cắm dưới nước. Bairơn đã từng làm cho những nơi ấy nổi danh trong thế giới thi ca, nhưng Ruyđy cảm thấy khổ sở gần như là bị cầm tù. Anh tỳ khuỷu tay vào một cửa sổ và nhìn về phía hòn đảo nhỏ lẻ loi có ba cây dạ hợp. Anh muốn ra đấy ở, xa cái xã hội làm cho người thợ săn quê mùa như anh khó chịu về những lời nói huyên thuyên và những kiểu cách tỉnh thành.
Ngược lại, Babét sung sướng và vui như lên tiên. Khi trở về nàng nói với Ruyđy như thế và thêm rằng anh chàng thanh niên người Anh khen nàng là một thiếu nữ hoàn mỹ. Ruyđy đáp lại, cộc lốc: “Hắn ấy à? Hắn là một thằng hề hoàn mỹ.” Đó là lần đầu tiên anh nói một câu làm Babét phật ý. Cậu công tử ấy đã tặng Babét một quyển sách đẹp, bản dịch tiếng Pháp cuốn “Người tù ở Si-ông” của Bairơn.
Ruyđy lại nói: “Đó có thể là một quyển sách hay, nhưng còn cậu công tử bột nịnh đàn bà tóc chải mượt đã cho em quyển sách ấy, thì không thương được.”
- Tôi trông anh ta như một cái túi bột rỗng ấy. Ông chủ cối xay vừa nói vừa cười ầm lên vì câu khôi hài của mình.
Ruyđy lại càng cười to hơn và thấy rằng ông chủ cối xay quả là một người pha trò rất tài tình.
Copyright 2008 - 2016 Liên hệ