2/5 (3) Bình chọn
...
Nhưng rồi những ngày ảm đạm nhất cũng qua đi. Đứa trẻ lớn dần. Biết lẫy, biết bò, rồi tập đi, tập nói. Có đứa trẻ trong nhà, thỉnh thoảng lại bi bô, nỗi buồn của chị cũng vơi nhẹ đi và nhà cửa cũng đỡ phần hiu quạnh. Chị lại hay bày ra các trò chơi và đồ chơi để con ngồi một mình, vì dẫu sao cũng phải làm nhiều công việc khác.
Khi đứa trẻ nói sõi và bắt đầu biết nhận xét đôi chút thì một hôm nó hỏi: "Mẹ ơi, bố đi đâu?". Mặc dù biết rồi có lúc con sẽ hỏi đến câu này, nhưng cứ nghĩ là nó còn bé quá, nên chị chỉ trả lời cho xong chuyện: "Bố đi vắng rồi".
Nào ngờ, thằng bé vẫn hỏi tiếp: "Thế bao giờ bố về?".
Chị đâm ra lúng túng, rồi đành phải trả lời thực: "Bố đi đánh giặc xa lắm, chưa về nhà được". Thế là thằng bé lắc đầu quày quạy, rồi lăn ra khóc, đòi mẹ: "Phải đưa bố về! Phải đưa bố về nhà kia!...".
Chị thực sự bối rối, nước mắt chảy quanh, dỗ con mà lòng dạ tan nát. Đứa bé vẫn cứ khóc. Lúc ấy, lợn trong chuồng lại đang rít lên đòi ăn. Không thể ngồi lâu, và thế là chị đã buột miệng thốt ra cái câu tai hại nhất: "Đến tối bố về!".
Đến tối! Khi người mẹ thắp đèn lên để trong nhà sáng sủa thì cũng là lúc đứa bé nhớ ra, và nó lại đòi đến mấy lần:"Mẹ ơi, bố đâu rồi?".
Chị thảng thốt nhìn quanh chờ đợi như thể chờ đợi sự xuất hiện của phép thần. Cửa lúc ấy đã khép và cổng bên ngoài cũng đã đóng... Chợt nhìn thấy cái bóng của mình đang lung linh trên vách, chị nhanh trí chỉ liền cho con thấy:"Đấy! Bố đấy! Bố đã về với Đản đấy!".
Đứa trẻ trố mắt ra ngạc nhiên - mọi lần trước, nó hoàn toàn không để ý đến chuyện này. Thế là nó reo lên, chạy về phía ấy. Biết ý, chị vẫy tay để cái bóng cũng vẫy tay theo, và thằng bé sung sướng, cười lên như nắc nẻ...
Chuyện đời nhiều khi nghĩ cũng thực oái oăm. Cái trò chơi vô hại ấy, cuối cùng rồi cũng trở thành có hại. Nhưng đó là chuyện xảy ra về sau, còn bây giờ, tối nào thằng Đản cũng bắt mẹ thắp đèn lên để cho bố nó về. Tối nào hai mẹ con chị cũng chơi đến tận khuya, chỉ khi nào thằng bé ríu mắt lại buồn ngủ, nó mới chịu thôi. Đấy cũng là cái cách một công đôi việc của người mẹ: trong lúc thằng bé đùa nghịch, chị tranh thủ vá may và làm được vô khối công việc khác nữa.
Kể ra, nếu đầu óc thằng bé bớt đần độn đi đôi chút, chắc trò chơi này cũng chẳng kéo dài được lâu. Cái sự đần độn của nó, cũng như cái tính thiển cận rồi dẫn đến hay ghen của người bố, chắc là do trời định. Và cũng là do trời định, cả cái tài đảm đang tháo vát của người phụ nữ chờ chồng, đã bày đặt ra trò vui, để tự động viên, nhưng cũng là để tự đánh lừa mình vậy.
Giá như người mẹ chẳng nghĩ ra cách tạo thêm nhiều hình thù mới mẻ, ngộ nghĩnh trên vách, thì chỉ mấy lần sau, thằng bé sẽ chán dần. Đằng này, để cho đứa con vui, dường như chị cũng tự huyễn hoặc với ngay cả chính mình nữa: Khi về nhà biết chuyện, chắc chồng chị sẽ mãn nguyện mà cười vang lên hả hê sung sướng lắm... Vẫn nhớ đinh ninh cái tính hay ghen đến kỳ cục của chồng, tối nào chị cũng gài chặt cánh cổng ngõ. Lại còn tấp thêm mấy ngọn tre gai ở phía trong nữa, cho chắc chắn.
Quả nhiên, đêm hôm chẳng có "kẻ nào" mò tới cả. Thế nhưng tiếng nói tiếng cười của hai mẹ con và ánh đèn, thì chẳng cánh cổng nào ngăn lại được. Theo kẽ vách, ánh sáng hắt cả ra ngoài sân, còn tiếng cười, thì vẳng sang đến tận các nhà hàng chòm hàng xóm...
Mấy ngày nay sao có tiếng chim khách về hót trước nhà - Chim báo điềm lành chăng? Lòng người thiếu phụ thấy xốn xang: Chồng chị mãn hạn lính sắp trở về đây. Tính từ ngày chàng Trương ra đi, đến nay đã ngoài ba năm và đứa con cũng đã gần ba tuổi. Nếu lúc này chồng chị về thật, thì còn có niềm vui sướng nào bằng? - Chị nghĩ thầm. Bà mẹ dẫu sao thì cũng mồ yên mả đẹp rồi, và chị cũng đã làm tròn bổn phận nàng dâu của mình, nếu bây giờ chị hay nghĩ đến chồng, cũng có gì là đáng trách? Ôi! Chẳng phải ngựa xe hay võng giá xênh xang, mà chỉ cầu chồng mặt mũi chân tay lành lặn trở về là được rồi. Nghĩ đến đấy, đôi mắt chị long lanh, hai gò má chị ửng hồng, còn trong lồng ngực, trái tim đập thình thịch... Thế rồi chỉ mấy ngày sau, chàng Trương chồng chị đã trở về nhà thật!
Vua Đại Việt tưởng có thể đè bẹp được ngay vua Chiêm Thành, nhưng nào ngờ, mấy trận đầu đã bị thua liểng xiểng. Nhà vua rút quân về sâu trong lãnh thổ, cách thật xa biên giới để củng cố lực lượng, và có lúc chán nản, đã toan rút quân về. Nhưng rồi sau có quân tiếp viện và lương thực tới, có Thượng tướng Lý Thường Kiệt can ngăn, lại có cả "biểu" khích lệ của bà Nguyên phi Ỷ Lan, nên cuối cùng nhà vua cũng lấy lại được sĩ khí, quyết tâm xuất binh thắng trận. Khi bài học mà nhà vua "dậy" xong, nghĩa là quân Chiêm Thành đã đại bại, thì bên phía quân ta, thiệt hại cũng không phải là ít. Tính ra, phải gần ba năm cuộc chiến mới thật tàn, cướp đi vô số sinh mạng và của cải.
Anh lính họ Trương, như đã nói, do có mánh khoé, nên cuối cùng vẫn bình an vô sự. Anh ta trở về mà lòng dạ hân hoan. Lại sắp được cặp kè bên vợ. Lại được nhìn thấy mẹ già. Lại có cả thằng con nhỏ lũn cũn chạy theo sau. Nỗi mừng trong lòng anh ta tựa như được chắp cánh mà bay lên trời vậy.
Nhưng nào ngờ, vừa đặt chân tới đầu làng, chàng Trương đã hay tin mẹ mất. Chàng nấc lên nức nở rồi vội vã bước thật nhanh về nhà. Đẩy cổng bước vào, thấy vợ con đang lúi húi dưới bếp, chàng cũng chỉ nhìn qua, rồi vội bước lên nhà trên, quẳng bọc quần áo xuống đất và lăn ra khóc thảm thiết. Về sau trong làng, có người bảo đấy là người con hiếu thảo hết lòng, nhưng có người lại cười thầm: sao mà nông nổi hồ đồ đến vậy!
Chị vợ dắt con từ nhà bếp lên, tần ngần một hồi lâu trước cảnh tượng, rồi cuối cùng cũng phải lựa lời khuyên nhủ chồng. Chàng ta đã thôi cơn khóc, liền xoà tay ôm lấy đứa con như thể cầu mong một sự chở che, nhưng đứa bé lại rãy nảy vùng chạy ra, làm cho chàng ta cảm thấy bị hẫng hụt. Chị vợ chẳng biết làm thế nào, chỉ trơ mắt đứng nhìn chồng. Chàng ta bảo vợ tìm cho nắm hương, be rượu, mấy quả cau và lá trầu không để đi viếng mộ mẹ. Lúc vợ đi chuẩn bị, thì chồng cũng tìm cách dỗ dành đứa con, nhưng hai mắt nó giương thao láo, nghe thấy mà chẳng nói năng gì. Chắc là nó vừa lạ vừa sợ.
Chàng Trương cầm lễ vật, bế cả đứa con để đi viếng mộ mẹ, bởi vì lúc này họ hàng làng xóm cũng đã bắt đầu đến chơi, chị vợ phải lo đun nước, dọn dẹp nhà cửa... nên bế nó không tiện.
Đường từ nhà ra mộ mẹ cũng khá xa, nhưng biết đám ruộng chôn, nên chàng Trương cũng không phải hỏi ai. Vừa đi chàng ta vừa sụt sùi, làm cho đứa bé sợ hãi, hai tay cứ ôm riết lấy cổ bố. Đến mộ, đặt lễ vật và thắp hương xong, chàng ta lại oà lên khóc nức nở. Vừa khóc vừa kể lể nông nỗi nguồn cơn. Rồi vật vã, rồi lại gào lên những hồi thảm thiết. Thấy người lớn khóc, đứa trẻ cũng khóc theo. Một lúc lâu sau, dường như chợt tỉnh ngộ, chàng Trương mới nhớ tới việc dỗ con. Và lần đầu tiên trong đời, đứa bé được nghe chàng ta gọi là "con" và xưng là "bố":
- Thôi, nín đi con, đừng khóc nữa. Bà đã mất rồi, lòng bố cũng đang tan nát đây. Nào đứng lên, về với bố đi con.
Đứa bé lúc này đã nín, nhưng nó lại giương cặp mắt nhìn người bố ngơ ngác. Nó nhớ nó đã có một người bố đen trùi trũi, đêm nào cũng trở về với hai mẹ con nó kia mà. Người bố ấy tuy không bao giờ nói, nhưng lần nào mẹ nó cũng bảo đấy là bố thật, và nó đã tin theo. Bởi vậy, nó trả lời chàng Trương - người bố đang đứng trước mặt:
- Ô... ông ... không phải là bố. Bố tôi đến tối mới về kia!
- Ai bảo thế? - chàng Trương liền sẵng giọng.
Đứa bé giương mắt thao láo đáp: "Mẹ!"
Chỉ mới vừa nghe có thế, đã thấy chàng Trương nổi lên cơn giận dữ điên cuồng. Máu dồn lên mặt, hai tai ù đặc, chàng ta giang tay ra toan tát thằng bé, nhưng rồi chợt tỉnh, hai tay lại buông thõng xuống, lẩy bẩy, và hai tròng mắt cũng tự nhiên ráo hoảnh. Thay vì nỗi đau, bây giờ trong lòng chàng chỉ còn là sự căm giận và cơn ghen thì mỗi lúc mỗi bốc lên ngùn ngụt.
Chẳng nói chẳng rằng, lại quên cả thu lễ vật, chàng ta vội vã bế thốc đứa con về nhà. Do cảm nhận được thái độ của "người bố", đứa trẻ cũng chẳng dám, dù chỉ là cựa quạy. Miệng nó nín câm như hạt thóc còn mặt mũi thì tái xanh tái xám đi.
Chàng Trương dường như đã chạy thẳng về nhà, nét mặt hằm hằm, gặp ai cũng không chào hỏi. Cơn giận dữ của chàng đang lên đến độ điên khùng.
Đặt phịch đứa con xuống sân, cũng chẳng chào hỏi ai, chàng ta vội vàng xuống bếp túm lấy tóc vợ, lôi đi sềnh sệch. Vừa chửi, chàng ta vừa vung tay tát vợ liên hồi. Khách khứa đột nhiên thấy cảnh này, ai ai cũng tròn xoe con mắt, một hồi sau mới dám vào can.
Chị vợ bị đau, bị nhục quá, vừa khóc, vừa chạy thẳng ra khỏi nhà... Cơn giận của chàng Trương vẫn chưa hả, lại chợt nhớ nỗi đau mất mẹ, chàng ta còn quát với theo sau:
- Bước! Bước đi! Đồ đĩ! Giá mày chăm sóc mẹ tao tử tế thì đâu đến nỗi này. Mẹ tao vừa nằm xuống mà mày đã vội rước trai về nhà. Thật là đồ quạ tha. Bước! Bước!...
Lúc ấy, họ hàng làng xóm mới bắt đầu bình luận. Những người ở xa thì bảo: "Xưa nay có thấy chị ấy chuyện trò lâu với ai đâu?" hoặc: "Bận việc nhà, việc đồng bãi, lại nách con nhỏ như thế, hỏi còn bụng dạ nào mà nghĩ đến chuyện trai trên gái dưới?" Nhưng những người láng giềng lại nói: "Đêm nào cũng thấy cửa đóng im ỉm, mà trong nhà đèn thắp sáng trưng, đến khuya vẫn còn có tiếng cười tiếng nói". Chưa ai hiểu thế nào. Thế rồi có người độc mồm độc miệng đã hạ một câu: "Tâm ngẩm mà đấm chết voi. Loi choi đấm voi không chết". Lại một người nữa: "Xưa nay ai biết ma ăn cỗ bao giờ?". Thật rõ là "miệng lưỡi thế gian!", và mọi người vẫn còn ngồi bàn tán mãi...
...
Copyright 2008 - 2016 Liên hệ