4/5 (7) Bình chọn
Mời các bạn và các em cùng đọc truyện cổ tích Đôi giầy hạnh phúc, một câu chuyện rất hay đã được Andersen kể lại cho chúng ta nghe.
TRUYỆN CỔ TÍCH ANDERSEN
ĐÔI GIẦY HẠNH PHÚC
Câu chuyện xảy ra trong một toà nhà, cạnh Hoàng trường mới, phố Đông, thành Côpenhagơ. Chủ nhân tiếp đón rất nhiều khách, vừa vì thích tiếp khách, vừa để rồi khách mời lại.
Một nửa khách khứa đã xúm quanh bàn cờ bạc, còn nửa kia đang chờ bà chủ nhà lên tiếng: “Xem nào? Chúng ta còn nghĩ ra cái gì mà chơi nữa không nhỉ?”
Quang cảnh lúc bấy giờ là như thế đấy và họ tiếp tục chuyện gẫu. Xen vào nhiều chuyện khác, họ bàn đến thời trung cổ. Chẳng một ai thấy thời ấy hơn thời nay. Ngài hội thẩm Knáp dốc hết nhiệt tình ra phản đối ý kiến ấy đến nỗi bà chủ nhà cũng phát biểu đồng ý kiến với ngài. Cả hai người đều phản đối bài của ông Oetxet đăng trong tờ Lịch thư, trong bài đó, bàn về thời cổ và thời kim, ông đánh giá thế kỉ chúng ta là thế kỉ phi thường hơn cả. Ngài hội thẩm chủ trương rằng từ trước tới nay thời vua Hanx là thời đại huy hoàng và hạnh phúc nhất.
Cuộc bàn cãi cứ tiếp tục. Chẳng còn gì tiêu khiển ngoài việc đọc lướt tờ báo vừa nhận được và thực ra trong báo cũng chẳng có tin gì thích thú.
Lúc này, chúng ta hãy ra ngoài phòng đợi, đầy những áo choàng, gậy chống, ô và giầy. Ngoài ấy có hai người hầu gái, một già, một trẻ, người ta dễ nhầm tưởng họ đến đây để đưa đón các bà chủ góa chồng của họ. Nhưng, nhìn kỹ hơn, người ta thấy ngay đó không phải là những người hầu phòng. Bàn tay họ thanh tú, dáng ngồi và điệu đi của họ lịch sự, không thích hợp với công việc ấy. Ngay quần áo của họ cũng khác thường và đầy vẻ tao nhã. Đó là hai nàng tiên.
Nàng trẻ tuổi không phải là thần May rủi, nàng có nhiệm vụ đi phân phát những món quà nho nhỏ của thần May rủi. Bà tiên già xem như nghiêm khắc vô cùng. Đó là thần Trừng Phạt, thường trực tiếp đi làm nhiệm vụ đế được yên trí về kết quả công việc.
Hai người kể cho nhau nghe ngày hôm ấy đã ở những đâu. Nàng thị tỳ của người hầu phòng thần May rủi mới chỉ làm được công việc không quan trọng gì mấy. Nàng kể rằng, nàng đã giữ cho một chiếc mũ mới khỏi bị nước mưa, đã chuyển tới một người có tài lời chào mừng của một kẻ vô tài trứ danh, và đã làm được khối việc khác tương tự. Nhưng còn phải làm một việc nữa rất dị thường. Nàng nói:
-Tôi phải báo để chị biết hôm nay là ngày sinh nhật của tôi và người ta đã giao cho tôi một đôi giày để làm quà cho người trần. Đôi giày có phép lạ, hễ ai xỏ chân vào thì muôn đi đến đâu hoặc sống lại thời đại nào cũng được ngay lập tức. Khi lời ước đấy đã được thực hiện, con người ấy có thể sướng ít ra là một lần trong đời mình.
-Phải, tốt lắm! Nhưng không khéo người ấy sẽ càng khổ hơn và lại mong sớm được từ bỏ đôi giày của chị.
-Ừ, cũng có thể như thế! Thôi được rồi, tôi cứ đặt đôi giày vào đây, gần cửa ra và, ai nhặt được sẽ sung sướng.
Đến đây, câu chuyện của họ kết thúc.
Đã khuya, ngài hội thẩm Knáp đang miên man suy nghĩ về thời đại của vua Hanx và muốn về nhà. Tình cờ ngài xỏ nhầm vào đôi giày hạnh phúc. Ngài đi ra lối phố Đông, nhưng phép lạ của đôi giày đã đưa ngài quay trở lại thời vua Hanx và chân ngài dẫm bùn lội qua các vũng nước vì thời ấy người ta chưa nghĩ ra cách lát gạch các hè phố. Ngài lẩm bẩm:
- Bùn khiếp thật! Hè phố chẳng còn, điện cũng tắt ngóm.
Trăng chưa mọc, hơn nữa, sương mù khá nhiều, mọi vật chìm trong đêm tối. Tuy nhiên ở một góc gần đấy có treo một ngọn đèn hắt ánh sáng xuống pho tượng Đức mẹ. Nhưng ánh đèn mờ quá nên ngài đến tận nơi, trông thấy tượng Đức mẹ đang bế Đức chúa Giêsu trên tay mới nhận ra là có đèn. Ngài nghĩ thầm:
- Có lẽ đây là một cửa hiệu mỹ phẩm mà người ta quên mất cái biển hàng.
Thấy hai người mặc quần áo thời cổ vượt lên trước, ngài nói:
- Kìa! Những người này ăn mặc có vẻ khác thường nhỉ! Hẳn là họ vừa đi dự hội khiêu vũ trá hình về.
Vừa hay có tiếng trống và tiếng địch nổi lên, ngài đứng lại và thấy một đám rước diễu qua. Đi đầu là trống rồi đến thị vệ cầm cung tên và binh khí. Người chỉ huy đám rước là một nhà tu hành. Ngạc nhiên, ngài hội thẩm hỏi thế là thế nào và người ấy là ai.
Thiên hạ trả lời:
- Đó là đức giám mục Xilen.
- Trời ơi! Đức giám mục làm sao thế kia? -Ngài hội thẩm lắc đầu lẩm bẩm- Có lẽ không phải người đâu.
Chìm đắm trong những ý nghĩ ấy, chẳng nhìn ngang nhìn ngửa, ngài hội thẩm đi qua phố Đông và quảng trường Cầu Lớn. Không sao mà tìm được cái cầu bắc sang quảng trường Cung Điện. Ngài chỉ loáng thoáng trông thấy một con sông rộng và cuối cùng ngài gặp hai người lúc này đang ngồi cùng trong một chiếc thuyền. Họ hỏi:
- Ngài muốn qua sông Hôlông không?
- Qua sông Hôlông à?- Ngài hội thẩm quên mất không biết mình đang sống trở lại thời nào. Tôi muốn đến ngõ Crixtianhavu, khu phố chợ. Hai người kia ngạc nhiên nhìn ngài. Ngài tiếp:
- Các ông chỉ dùm cho tôi lối lên cầu. Không có lấy một ngọn đèn, đến là tối, cứ bì bõm như trong đồng lầy ấy. Bùn ơi là bùn!
Ngài càng nói chuyện với hai người thuỷ thủ lại càng chẳng hiểu họ nói gì.
- Chẳng thế nào mà hiểu được cái tiếng địa phương Bôvulon của bác!
Thế là ngài bực tức quay phắt đi. Ngài không làm thế nào tìm ra được cái cầu, ngay cả đến lan can dọc bờ sông cũng chẳng có. Ngài lẩm bẩm:
- Cơ sự này thì loạn thật!
Chưa bao giờ mà ngài lại cảm thấy thời đại ngài sống thảm hại đến thế. Ngài lại nói tiếp:
- Có lẽ phải gọi một cái xe mà đi mới được.
Nhưng đào đâu ra xe kia chứ? Trông mòn mắt cũng chẳng có lấy một cái.
- Mình phải quay về Hoàng trường mới mà kiến xe không khéo thì chẳng bao giờ về tới Crixtianhavu mất!
Thế là ngài lại men quay trở lại phố Đông, đi gần tới đầu phố thì trăng lên. Trông thấy cổng thành phía Đông-thời ấy dựng ngay đầu phố-Ngài kêu lên:
- Trời ơi, người ta dựng cái đài này lên đây làm gì thế này?
Cuối cùng, ngài cũng tìm ra được một chiếc xe ngựa và ra đến khoảng đất quảng trường mới hiện nay. Thời xưa đấy chỉ là một bãi cỏ rộng, đây đó có một vài bụi cây. Một con sông đào rộng chảy qua, đổ thẳng ra biển. Bờ bên kia có một vài túp lều gỗ tồi tàn của những người thuỷ thủ xóm Halăng (do đó nơi ấy nay được đặt tên là mũi Halăng). Ngài tự nhủ:
- Nàng tiên Moócgan trêu mình hay là mình say rượu chẳng biết được? Thế này là thế nào nhỉ?
Ngài quay lại, yên trí là mình ốm. Vào đến trong phố, ngài nhìn thấy rõ nhà cửa hơn, phần lớn vách dựng bằng thanh gỗ, nhiều nhà lợp bằng rạ. Ngài lẩm bẩm:
- Quái thật! Mình khó ở hay sao ấy! Mình chỉ uống có một cốc rượu pha đường thôi mà chịu không nổi. Lại còn cho mình một cốc rượu pha đường với cá hồi nóng thì điên thật. Cái bà vợ quan nội thần ác thật! Hay là mình quay lại để cho họ biết mình hiện giờ ra sao. Nhưng thế thì cũng hơi lẩn thẩn. Chả biết bây giờ họ còn thức hay không.
Ngài tìm sân nhà, nhưng chịu, tìm không ra.
- Khiếp thật! Mình không nhận ra nổi phố Đông nữa. Chẳng còn lấy một cửa hiệu! Chỉ toàn là những cái lều cũ kỹ tồi tàn như ở Rôtxôkin hay Rinhxtêt. Trời! Mình ốm quá mất rồi! Nhưng không phải là lúc nhút nhát được! Quái, nhà quan nội thần đâu mất rồi nhỉ? Họ dậy rồi thì phải. Trời, sao ta lại ốm thế này?
Ngài gõ cửa một nhà có ánh sáng lọt qua khe cửa hé mở. Đấy là một quán trọ thời xưa, một loại quán bán rượu bia. Căn phòng giống như những tiệm rượu vùng Honxtanh. Ở đấy tụ họp một số lính thuỷ, vài người thành thị với hai nhà bác học nữa. Người nào cũng có một cốc bia trước mặt và đang chuyện trò náo nhiệt. Khi ngài hội thẩm bước vào, họ không để ý đến ngài lắm. Bà chủ quán chạy đến. Ngài bảo:
- Xin lỗi, tôi thấy người rất khó ở! Bà có thể gọi xe đưa tôi về Crixtianhavu được không?
Bà chủ quán nhìn ngài, lắc đầu rồi nói với ngài bằng tiếng Đức. Ngài hội thẩm đoán là bà ta không biết tiếng Đan Mạch, liền hỏi bà ta lần nữa bằng tiếng Đức. Tiếng nói và cách ăn mặc của ngài làm cho bà chủ quán càng tin rằng ngài là người nước ngoài. Bà ta hiểu ngay rằng ngài ốm và mang cho ngài một cốc nước mằn mặn, mặc dầu đó là nước bà vừa tự tay đi hứng ở vòi nước về.
Ngài hội thẩm ôm đầu thở dài, suy nghĩ về tất cả những điều kỳ lạ xung quanh mình.
...
Copyright 2008 - 2016 Liên hệ